Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2023
Lượt xem: 4836

I. Phát triển kinh tế

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và phát triển nông thôn:

Trong 6 tháng đầu năm 2023, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh còn gặp khó khăn do thiên tai thời tiết diễn biến bất thường, hạn hán, thiếu nước; giá vật tư nông nghiệp, giá thức ăn chăn nuôi tăng cao, nguyên liệu đầu vào và cước vận chuyển tăng, trong khi giá bán sản phẩm thấp và không ổn định,... Tuy nhiên, với việc thực hiện tốt các chính sách về phát triển nông nghiệp, đặc biệt là Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 26/8/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về chiến lược phát triển nông nghiệp hàng hóa tỉnh Lào Cai đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định. Cụ thể:

a) Trồng trọt:

- Mặc dù gặp khó khăn do ảnh hưởng của diễn biến thời tiết, khí hậu, nắng nóng và hạn hán kéo dài, nhưng về tổng thể năng suất và sản lượng cây trồng vẫn được duy trì. Tổng sản lượng lương thực có hạt 6 tháng đầu năm ước đạt 109.065 tấn, bằng 98% so cùng kỳ (CK) và 33,4% kế hoạch (KH).

- Các cây trồng chính khác như chè, rau, hoa, dược liệu, cây ăn quả,… phát triển ổn định, diện tích, năng suất, sản lượng đều tăng so với CK. Nhìn chung các sản phẩm dứa, chè, dược liệu… tiêu thụ tốt.

- Công tác chuẩn bị và cung ứng giống cho sản xuất vụ Xuân được chuẩn bị đầy đủ và thực hiện đảm bảo đúng tiến độ, khung thời vụ; công tác điều tra, dự tính dự báo sâu bệnh hại trên cây trồng được thực hiện thường xuyên, liên tục không để xảy ra thành dịch.

b) Chăn nuôi:

Đàn vật nuôi phát triển ổn định, các sản phẩm chăn nuôi đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của Nhân dân. Nuôi trồng thủy sản phát triển cả về diện tích mặt nước, năng suất, sản lượng. Tổng đàn gia súc thực hiện 606.000 con, đạt 99,67% KH (trong đó đàn lợn 435.160 con); tổng đàn gia cầm lũy kế 4.970 nghìn con, đạt 97,45% KH; sản lượng thịt hơi lũy kế 34.440 tấn, đạt 49,70% KH năm. Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản ao, hồ nhỏ thực hiện 2.210 ha, đạt 96,09% KH; sản lượng thủy sản các loại thực hiện lũy kế 5.874 tấn, đạt 48,15% KH. Tổng sản lượng thịt hơi và sản lượng thủy sản các loại đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh, một phần xuất bán ra ngoài tỉnh như thành phố Hà Nội và tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ. Công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn vật nuôi được triển khai quyết liệt, dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm cơ bản được kiểm soát.

c) Lâm nghiệp:

Tình hình sản xuất lâm nghiệp ổn định và phát triển; công tác trồng, chăm sóc rừng được quan tâm. Nhiều hộ gia đình đã có thu nhập bền vững từ rừng, đã tạo thành vùng hàng hóa tập trung. Công tác phát triển rừng: Trong tháng, diện tích trồng mới đạt 107 ha, lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 toàn tỉnh đã trồng mới được 3.407 ha, giảm 16,95% so CK (do KH trồng rừng năm 2023 giảm). Số cây trồng phân tán 6 tháng đầu năm đạt 1.420 nghìn cây, tăng 2,9% so với CK năm 2022. Sản lượng gỗ khai thác trong tháng đạt 15.680 m3, lũy kế đạt 78.822 m3, tăng 2,89% so CK.

Tăng cường kiểm tra bám sát cơ sở, hướng dẫn người dân canh tác nương rẫy an toàn; tổ chức các buổi tuyên truyền lưu động đặc biệt trong những ngày nắng nóng khô hanh kéo dài. 6 tháng đầu năm phát hiện 91 vụ vi phạm pháp luật về lâm nghiệp; xảy ra 15 vụ cháy rừng, thiệt hại 45,79 ha rừng.

d) Phát triển nông thôn, xây dựng nông thôn mới:

Chương trình xây dựng nông thôn mới được các cấp chính quyền quan tâm chỉ đạo triển khai thực hiện. Đến nay toàn tỉnh có 02/9 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (thành phố Lào Cai hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới năm 2019; huyện Bảo Thắng đạt chuẩn nông thôn mới năm 2020). Toàn tỉnh có 62/127 xã được công nhận “Xã đạt chuẩn nông thôn mới”, trong đó có 04 xã được công nhận “Xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao”. Số thôn, bản thuộc các xã đặc biệt khó khăn khu vực biên giới, vùng núi: đến nay có 20/111 thôn, bản được công nhận “Thôn đạt chuẩn nông thôn mới”. Bình quân mỗi xã đạt 10,61 tiêu chí theo Bộ tiêu chí xã nông thôn mới tỉnh Lào Cai giai đoạn 2022 - 2025.

đ) Phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn:

Trong 6 tháng đầu năm 2023, diễn biến thời tiết thiên tai trên địa bàn tỉnh phức tạp, khó lường, cực đoan gây thiệt hại về người, tài sản, hoa màu của Nhân dân trên địa bàn tỉnh. Đã xảy ra 12 đợt thiên tai (5 đợt rét hại, sương muối kèm theo mưa phùn; 04 đợt dông lốc kèm theo mưa đá, mưa lớn cục bộ; 03 đợt nắng hạn); ngoài ra có các đợt nắng nóng, ít mưa đã gây hạn hán, thiếu nước cho sản xuất, sinh hoạt. Thiệt hại do thiên tai gây ra bao gồm: 01 người chết; hư hỏng 276 nhà; thiệt hại 6.218 ha lúa, hoa màu, cây các loại (ước thiệt hại về nông nghiệp là trên 254 tỷ đồng); thiệt hại các công trình hạ tầng kỹ thuật (hạ tầng giáo dục, văn hóa, thủy lợi, nước sạch, đường giao thông, trụ sở UBND xã) khoảng 149 tỷ đồng. Tổng thiệt hại về kinh tế do các đợt thiên tai gây ra trong 6 tháng đầu năm khoảng 407 tỷ đồng.

2. Sản xuất công nghiệp, xây dựng cơ bản

a) Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp:

Hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh gặp nhiều khó khăn, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, giá nguyên, nhiên vật liệu đầu vào còn ở mức cao; thiếu nguyên liệu sản xuất; một số sản phẩm sản xuất ra khó tiêu thụ, hàng tồn kho tăng cao; Nhà máy gang thép Việt - Trung chưa hoạt động trở lại; một số đơn vị gặp khó khăn trong việc hoàn thiện hồ sơ pháp lý để thực hiện các dự án,... mặt khác do ảnh hưởng của El-Nino, 6 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh không có mưa lớn, nên mực nước ở các hồ chứa xuống thấp không đủ phục vụ các nhà máy thủy điện, đã ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cũng như ngành điện. Giá trị sản suất công nghiệp tháng 6 ước đạt 4.242 tỷ đồng, tăng 22,76% so với tháng trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm ước đạt 20.207 tỷ đồng (giá so sáng 2010) bằng 40% so với KH và bằng 91% so với CK năm 2022.

Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp được duy trì, phát triển. Sản phẩm tiểu thủ công nghiệp của các địa phương 6 tháng đầu năm ước đạt 2.341 tỷ đồng (giá so sánh 2010), bằng 53% KH, tăng 23,2% so với CK.

b) Xây dựng cơ bản:

Tiến độ triển khai thực hiện các dự án trọng điểm có sức lan tỏa, tạo ra đột phá lớn và mang tính kết nối được tỉnh tích cực đôn đốc, phối hợp với các bộ, ngành để sớm triển khai như: Dự án đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai đoạn Yên Bái - Lào Cai lên quy mô 04 làn xe; lập quy hoạch chi tiết tuyến đường sắt khổ 1.435mm Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng… Tập trung tháo gỡ các vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện các dự án trọng điểm cụ thể như: Dự án Cảng hàng không Sa Pa; Cải tạo, nâng cấp các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ trên địa bàn tỉnh; Trường THPT Chuyên Lào Cai, Trung tâm Y tế huyện Si Ma Cai, nâng cấp các bệnh viện đa khoa tuyến huyện (Bảo Yên, Văn Bàn, Bát Xát, Bảo Thắng, Bắc Hà), Bệnh viện Đa khoa tỉnh giai đoạn 2; Kè biên giới; Sân vận động thị xã Sa Pa; Trung tâm hội nghị và văn hóa thị xã Sa Pa… Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 23.850 tỷ đồng, bằng 45% KH, tương đương so với CK.

UBND tỉnh chỉ đạo quyết liệt các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn ngay từ đầu năm, coi đây là một nhiệm vụ chính trị quan trọng. Tổng kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023 theo các Nghị quyết HĐND tỉnh giao (bao gồm cả vốn năm 2022 được phép kéo dài sang năm 2023): 6.560 tỷ đồng, tăng 14% so với CK (5.716 tỷ đồng). Ước giá trị giải ngân đến ngày 30/6/2022 khoảng 2.272 tỷ đồng, đạt 35% KH, cao hơn 11% so với CK (CK đạt 24% KH), về số tuyệt đối giải ngân cao hơn CK trên 909 tỷ đồng.

3. Thương mại, dịch vụ

a) Hoạt động thương mại:

Tình hình hoạt động kinh doanh thương mại trên địa bàn tỉnh diễn ra khá sôi động. Thời điểm Tết Nguyên đán Quý Mão diễn ra nhiều các Lễ hội truyền thống nên lượng khách đến tham quan, du lịch tại các điểm du lịch kết hợp du lịch tâm linh trên địa bàn cũng tăng mạnh so với CK năm trước. Nguồn cung các mặt hàng lương thực, thực phẩm dồi dào, hàng hóa được lưu thông thông suốt, đáp ứng tốt nhu cầu của đời sống và Nhân dân trong tỉnh, giá cả hàng hóa ổn định, không có hiện tượng đầu cơ găm hàng, tăng giá bất hợp lý.

Tổng mức lưu chuyển bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội tháng 6 ước đạt 3.269,8 tỷ đồng, tăng 3,4% so với tháng trước, tăng 24,9% so với CK. 06 tháng đầu năm 2023 ước đạt 18.156,7 tỷ đồng, tăng 23,4% so với CK năm trước, bằng 52,8% so với KH.

b) Xuất nhập khẩu:

Hoạt động xuất nhập khẩu được khôi phục toàn diện hoạt động thông quan qua các cửa khẩu, tuy nhiên lưu lượng hàng hóa vẫn còn thấp so với thời điểm trước khi diễn ra dịch Covid-19. Tại Cửa khẩu quốc tế đường bộ số II Kim Thành, trung bình mỗi ngày có khoảng trên 300 phương tiện vận chuyển hàng hóa xuất, nhập khẩu qua cửa khẩu (chủ yếu là các mặt hàng nông sản, trái cây tươi nên giá trị xuất khẩu thấp). Tại Cửa khẩu quốc tế ga đường sắt, hoạt động thông quan diễn ra bình thường, trung bình 02 chuyến xe xuất, nhập khẩu mỗi ngày. Hàng hóa thông quan chủ yếu là nhập khẩu phân bón và quá cảnh mặt hàng lưu huỳnh.

Tổng giá trị xuất nhập khẩu, mua bán, trao đổi hàng hoá qua các cửa khẩu trong tháng 6/2023 ước đạt 192,92 triệu USD, tăng 10,93% so với tháng trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 945,04 triệu USD, bằng 91,06% so với CK 2022, đạt 18,9% KH.

c) Công tác quản lý thị trường:

Tình hình buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa không có diễn biến phức tạp, không phát sinh điểm nóng và các vụ việc nổi cộm, các vụ việc vi phạm chủ yếu có quy mô nhỏ lẻ. Lực lượng Quản lý thị trường đã phối hợp với các lực lượng chức năng và chính quyền địa phương thường xuyên phối hợp tuần tra, kiểm soát, trao đổi thông tin nên đã kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, không để xảy ra các vụ việc nổi cộm, tụ điểm phức tạp về buôn bán, vận chuyển hàng lậu, hàng cấm, hàng không rõ nguồn gốc… trên địa bàn. Lũy kế từ đầu năm, lực lượng quản lý thị trường tiến hành kiểm tra: 495 vụ (bằng 88,2% so với CK 2022); Số vụ vi phạm, xử lý: 360 vụ (tăng 12,1% so với CK 2022); Tổng giá trị xử lý: 4.923 triệu đồng (tăng 23,9% so với CK 2022); Tổng số thu nộp ngân sách nhà nước: 2.529 triệu đồng (tăng 79,7% so với CK 2022).

c) Du lịch:

Du lịch Lào Cai phục hồi mạnh mẽ (lượng khách du lịch trong dịp Tết Nguyên Đán và Kỳ nghỉ lễ 30/4 - 01/5 của Lào Cai đều xếp top đầu cả nước). Đặc biệt, sau khi Cửa khẩu quốc tế Lào Cai (Việt Nam) - Hà Khẩu (Trung Quốc) mở cửa hoàn toàn, thị trường khách Trung Quốc có tín hiệu khởi sắc trở lại.

Tháng 6/2023 tổng lượng khách đến Lào Cai đạt 541.685 lượt khách (trong đó khách quốc tế 41.992 lượt, khách nội địa 499.694 lượt), giảm 13,6% so với tháng trước. Tổng thu từ khách du lịch đạt 1.867 tỷ đồng, giảm 7% so với tháng trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 tổng lượng khách đến Lào Cai đạt 3.782.577 lượt khách (trong đó khách quốc tế đón 237.139 lượt, khách nội địa đón 3.545.439 lượt), bằng 63% KH, tăng 128,8% so CK 2022 (1.629.985 lượt). Tổng thu từ khách du lịch ước đạt khoảng 10.813 tỷ đồng, bằng 53% KH (20.500 tỷ đồng), tăng 87% so với CK 2022 (5.697 tỷ đồng).

d) Hoạt động vận tải:

- Vận tải hành khách (HK): Tháng 6 ước đạt 959 nghìn HK, tăng 51,88% so với CK năm trước; luân chuyển đạt 47.619 nghìn HK.Km, tăng 63,38%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, vận tải HK đạt 6.171 nghìn HK, tăng 74,04% so với CK năm trước; luân chuyển đạt 294.075 nghìn HK.Km, tăng 80,27%.

- Vận tải hàng hóa: Tháng 6 ước đạt 1.283 nghìn tấn, tăng 31,14% so với CK năm trước; luân chuyển đạt 49.294 nghìn tấn.km, tăng 7,55%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, vận tải hàng hóa đạt 7.328 nghìn tấn, tăng 31,14% so với CK; luân chuyển đạt 275.074 nghìn tấn.km, tăng 7,55%.

- Doanh thu vận tải: Tổng doanh thu vận tải tháng 6 ước đạt 490,94 tỷ đồng, tăng 41,13% so với CK 2022; trong đó, doanh thu vận tải hành khách đạt 194,22 tỷ đồng, doanh thu vân tải hàng hóa đạt 203,83 tỷ đồng, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 92,89 tỷ đồng. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, tổng doanh thu vận tải đạt 2.881,06 tỷ đồng, tăng 51,47% so với CK; trong đó doanh thu vận tải hành khách đạt 1.269,24 tỷ đồng, doanh thu vận tải hàng hóa đạt 1.123,12 tỷ đồng, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 488,70 tỷ đồng.

4. Tài chính, tín dụng, giá cả thị trường

a) Thu, chi ngân sách:

Thu ngân sách nhà nước được triển khai tích cực ngay từ những tháng đầu năm. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh ước đạt 3.580 tỷ đồng, bằng 41,9% dự toán trung ương, bằng 29,8% dự toán HĐND tỉnh giao và bằng 77,4% so với CK. Tổng thu ngân sách địa phương 6 tháng đầu năm ước đạt 14.867 tỷ đồng, bằng 95,8% dự toán Trung ương giao, bằng 82% dự toán HĐND tỉnh giao, bằng 124,6% so với CK. Tổng chi ngân sách địa phương 6 tháng đầu năm ước đạt 10.411 tỷ đồng, bằng 67% dự toán Trung ương giao, bằng 57% dự toán HĐND tỉnh giao, bằng 143% so CK.

b) Hoạt động tín dụng:

Ước đến ngày 30/6/2023, tổng nguồn vốn ước đạt 60.600 tỷ đồng, tăng 3.403 tỷ đồng (+5,9%) so với cuối năm 2022. Trong đó: Nguồn vốn huy động tại địa bàn ước đạt 43.490 tỷ đồng, tăng 2.225 tỷ đồng (+5,4%) so với 31/12/2022, chiếm 71,8% tổng nguồn vốn huy động, đáp ứng được khoảng 83,4% nhu cầu vốn tín dụng trên địa bàn.

Doanh số cho vay 6 tháng 2023 ước đạt 43.500 tỷ đồng tăng 1,8%, doanh số thu nợ ước đạt 41.000 tỷ đồng, giảm 7,8% so với CK năm 2022. Tổng dư nợ cho vay đạt 52.157 tỷ đồng, tăng 5,2% so với cuối năm 2022. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ đảm bảo an toàn, ở mức dưới 1,05%.

c) Chỉ số giá tiêu dùng:

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 tăng 0,52% so tháng trước và tăng 0,45% so với cùng tháng năm trước. CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2023 tăng 1,47% so với bình quân CK năm 2022.

5. Thu hút đầu tư, phát triển các thành phần kinh tế

- Thu hút đầu tư trong nước trên địa bàn được đẩy mạnh, triển khai nhiều cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư, tuy nhiên kết quả chưa đạt được như kỳ vọng. Trong 6 tháng đầu năm, UBND tỉnh cấp quyết định chủ trương đầu tư cho 06 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn 114,89 tỷ đồng, thấp hơn so với 6 tháng đầu năm 2022.

- Thu hút đầu tư nước ngoài: Trong 06 tháng đầu năm, trên địa bàn tỉnh không có dự án FDI mới. Lũy kế đến thời điểm hiện tại, tỉnh Lào Cai có 27 dự án FDI  còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 685,818 triệu USD.

- Phát triển doanh nghiệp: Trong tháng, thực hiện cấp giấy chứng nhận đăng ký mới cho 63 doanh nghiệp và 06 đơn vị trực thuộc, tổng vốn đăng ký đạt 382,6 tỷ đồng. Lũy kế từ đầu năm đến nay, thực hiện cấp giấy chứng nhận đăng ký mới cho 344 doanh nghiệp và 31 đơn vị trực thuộc, tăng 21,1% so với CK; tổng vốn đăng ký đạt 3.180 tỷ đồng; tạm ngừng hoạt động 387 doanh nghiệp, tăng 14,5% so CK; giải thể 44 doanh nghiệp, tăng 18,9% so với CK; hoạt động trở lại 205 doanh nghiệp, tăng 2% so CK.

II. Văn hoá, xã hội

1. Hoạt động giáo dục

- Thực hiện các chỉ tiêu của ngành giáo dục đạt kế hoạch giao: Tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi ra lớp đạt 99,8%; trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99,9%; trẻ từ 6 - 14 tuổi đạt 99,8%; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS học lên THPT, GDTX và học nghề đạt 84%; tỷ lệ thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục phổ thông và tương đương đạt 80%; tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 76,1% (tăng 1,2% so với năm 2020); tích cực chỉ đạo triển khai xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia, đến nay đã có 398 trường, đạt 66,1% (tăng 8 trường, tăng 2,05% so với năm 2021).

- Công tác phổ cập giáo dục và xóa mù chữ được duy trì vững chắc ở 100% xã, phường, thị trấn. Tiếp tục thực hiện quy hoạch mạng lưới trường, lớp giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó tập trung: giảm, xóa, gộp điểm trường, giảm lớp, giảm học sinh ở điểm trường lẻ, tăng số học sinh ở trường chính, tăng số học sinh tối đa theo quy định/lớp để tập trung đầu tư; gắn sắp xếp trường, lớp với thực hiện tinh, giản biên chế, đáp ứng tốt nhu cầu học học tập của Nhân dân, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Chất lượng giáo dục toàn diện và hiệu quả giáo dục tiếp tục có nhiều chuyển biến rõ và toàn diện, vững chắc ở tất cả các cấp học; bồi dưỡng, phát hiện học sinh giỏi, học sinh năng khiếu và nghiên cứu khoa học, tiếp tục đạt kết quả cao ở các cuộc thi.

- Công tác xã hội hóa tiếp tục được cấp ủy, chính quyền các cấp và Nhân dân đồng tình ủng hộ. Công tác hợp tác và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, nhận thức hội nhập được nâng lên, tích cực hợp tác, giao lưu với các cơ sở nước ngoài, đẩy mạnh dạy và học ngoại ngữ; nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ, trường chuẩn quốc gia, trường PTDT Nội trú. Thành lập Trường Tiểu học, THCS&THPT Quốc tế Canada - Lào Cai; ngoài ra với 26 Trung tâm Ngoại ngữ ngoài công lập góp phần thúc đẩy phong trào và nâng cao chất lượng dạy - học ngoại ngữ trên địa bàn tỉnh.

2. Hoạt động văn hoá thông tin, thể dục thể thao

- Trong 6 tháng đầu năm 2023, hoạt động văn hóa, thể thao đã được triển khai tổ chức sôi động trên địa bàn tỉnh; các hoạt động lễ hội, văn hóa cổ truyền dân tộc được tổ chức lại sau hơn 02 năm đại dịch Covid-19, góp phần đảm bảo nhu cầu hưởng thụ văn hóa, tín ngưỡng của Nhân dân. Tổ chức tốt và tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ chào mừng các sự kiện lớn của đất nước, của tỉnh. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với xây dựng nông thôn mới, văn minh đô thị, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở được đẩy mạnh. Tiếp tục triển khai thực hiện Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 thông qua việc triển khai xây dựng Kế hoạch Cuộc thi Đại sứ văn hóa đọc tỉnh Lào Cai hằng năm. Các hoạt động phục vụ văn hóa cơ sở tiếp tục quan tâm. Các đội tuyên truyền lưu động ước thực hiện được 525/975 buổi, đạt 53,8% KH.

- Chủ động tổ chức các hoạt động hội nhập quốc tế về văn hóa, hợp tác và quảng bá bản sắc văn hóa, con người Lào Cai thông qua các chương trình hợp tác, hoạt động đối với với các quốc gia, vùng, lãnh thổ trên thế giới như: Chương trình hợp tác giữa tỉnh Lào Cai (Việt Nam) và Vùng Nouvelle Aquitaine (Pháp) giai đoạn 2020 - 2023 thông qua hoạt động triển khai hợp phần hợp tác lĩnh vực thể thao mạo hiểm (Trượt thác nước - Canyon, Chèo thuyền hơi - Kayak, xe đạp 4 người) và hoạt động trưng bày tại Bảo tàng; phối hợp với Trung tâm Văn hóa Hàn Quốc tại Việt Nam tổ chức Ngày Văn hóa Hàn Quốc tại Sa Pa (Lào Cai); triển khai hợp tác với Vân Nam - Trung Quốc,…

- Hoạt động thể thao được tổ chức đúng kế hoạch, sôi nổi và rộng khắp với chất lượng chuyên môn cao, thu hút đông đảo nhân dân tham gia tập luyện thể dục thể thao (TDTT), góp phần nâng cao thể lực, tầm vóc người Lào Cai. Số người tham gia tập luyện TDTT thường xuyên đạt khoảng 36%; số hộ gia đình thể thao đạt trên 21%; Khoảng trên 1.000 câu lạc bộ TDTT (trong đó có trên 300 CLB hoạt động nhiều môn)… Hoạt động thể thao thành tích cao được chú trọng. Tiếp tục duy trì đào tạo đối với 240 VĐV (30 VĐV đội tuyển cấp tỉnh, 75 VĐV đội tuyển trẻ, 135 VĐV đội tuyển năng khiếu cấp tỉnh).

3. Y tế, dân số, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng

- Công tác khám chữa bệnh được duy trì thường xuyên, đảm bảo chế độ thường trực cấp cứu, sẵn sàng tiếp nhận, điều trị bệnh nhân. Công suất sử dụng giường bệnh: 91,67%, tăng so với CK năm 2022 (CK 2022: 78,72%). Trong đó tại bệnh viện 92,01% (CK 2022: 78,72%), tại phòng khám đa khoa khu vực 88,43% (CK 2022: 51,52%). Cơ bản các đơn vị y tế hiện nay đã đáp ứng đủ nhu cầu thuốc điều trị thiết yếu tại đơn vị.

- Quản lý chặt chẽ các bệnh truyền nhiễm lưu hành địa phương, một số bệnh như tiêu chảy, quai bị... xảy ra rải rác tại các huyện, thị xã, thành phố được giám sát phát hiện, điều trị kịp thời. Tiếp tục theo dõi, bám sát tình hình dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn, nhất là sự xuất hiện các biến thể mới; thường xuyên đánh giá cấp độ dịch để kịp thời điều chỉnh các biện pháp phòng, chống dịch theo Nghị quyết 128/NQ-CP; tăng cường giám sát phát hiện sớm, điều trị kịp thời các trường hợp mắc bệnh, hạn chế các trường hợp chuyển bệnh nặng, tử vong. Lũy kế đến thời điểm hiện tại toàn tỉnh ghi nhận 189.023 trường hợp mắc Covid-19 (trong đó có 40 ca tử vong); tính trung bình trong 6 tháng đầu năm, có 284 ca mắc/tháng. Duy trì công tác tiêm chủng phòng dịch Covid-19 cho Nhân dân, tiêm mũi tăng cường, đặc biệt là đối với nhóm có nguy cơ cao (người có bệnh lý nền, người cao tuổi...); chuẩn bị đầy đủ vắc-xin, cơ sở vật chất để tiêm phòng cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi.

- Công tác tiêm chủng mở rộng cho trẻ em được triển khai đúng kế hoạch, an toàn, không có tai biến xảy ra. Duy trì truyền thông nhằm giảm mất cân bằng giới tính khi sinh tại 99/152 xã, phường, thị trấn.

- Duy trì tốt các hoạt động tuyên truyền, kiểm tra, thẩm định, cấp chứng nhận cho cơ sở kinh doanh về đảm bảo an toàn thực phẩm. Trong 6 tháng đầu năm, theo ghi nhận, toàn tỉnh chỉ xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm tại xã Trì Quang, huyện Bảo Thắng làm 03 người mắc và nhập viện.

4. Giải quyết việc làm, đào tạo nghề, an sinh xã hội

- Công tác giải quyết việc làm mới có nhiều chuyển biến tích cực. Tháng 6/2023, giải quyết việc làm cho 1.500 lao động, trong đó có 755 lao động được vay vốn Quỹ quốc gia việc làm. Lũy kế thực hiện 6 tháng đầu năm 2023 thực hiện giải quyết việc làm cho 8.620/KH 13.200 lao động, đạt 63,6% KH năm.

- Công tác Giáo dục nghề nghiệp được đẩy mạnh: Trong tháng 6/2023 các cơ sở GDNN đã tuyển sinh được 1.577 người. Luỹ kế đến hết tháng 6 năm 2023 đào tạo được 5.770/KH 11.500 người đạt 50,17% KH (cao hơn CK năm 2022 là 448 người).  Lũy kế từ đầu nhiệm kỳ đến hết tháng 6/2023 tuyển sinh và đào tạo được 29.000/KH 58.000 người đạt 50% so với mục tiêu kế hoạch giai đoạn 2021 - 2025. Qua đó góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 67,2%, đạt 99,3%KH. Trong đó tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ ước đạt 29%, đạt 98,9% KH.

- Công tác giảm nghèo, bảo trợ xã hội và bảo vệ chăm sóc trẻ em được quan tâm chỉ đạo, tổ chức chăm lo, trợ giúp các đối tượng chính sách (người có công với cách mạng, người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội và các đối tượng yếu thế khác) được đón Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023 đầy đủ với tinh thần không để người dân nào không có Tết, không để ai bị bỏ lại phía sau. Thực hiện quản lý trên 25.000 hồ sơ người có công với cách mạng, trong đó có 3.148 người có công, thân nhân người có công với cách mạng hưởng hàng tháng trên địa bàn theo quy định.

5. Hoạt động Khoa học - Công nghệ

Công tác quản lý công nghệ, chuyển giao công nghệ đi vào chiều sâu, bước đầu hình thành một môi trường công nghệ lành mạnh, hiệu quả. Quản lý, kiểm tra theo dõi, nắm bắt tình hình thực hiện 46 đề tài, dự án nghiên cứu khoa học cấp tỉnh; 07 dự án chính sách khuyến khích ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ của tỉnh; 03 dự án thuộc chương trình nông thôn miền núi Trung ương ủy quyền địa phương quản lý. Phối hợp quản lý 06 dự án thuộc chương trình nông thôn miền núi theo yêu cầu của Văn phòng các chương trình của Bộ Khoa học và Công nghệ.

Quản lý tốt 49 cơ sở sử dụng nguồn phóng xạ; công tác quản lý nhà nước về công nghệ được tăng cường đẩy mạnh, đối với các dự án xin điều chỉnh dự án đầu tư về công nghệ, thiết bị được đảm bảo đúng quy định. Tăng cường các biện pháp thúc đẩy hoạt động sáng kiến trên địa bàn tỉnh. Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lường chất lượng tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm hàng hóa lưu thông trên thị trường, đặc biệt là các hàng hóa như xăng dầu, khí dầu mỏ hóa lỏng, thiết bị điện, điện tử... được thực hiện tốt. Hoạt động kiểm định, kiểm nghiệm đáp ứng được nhu cầu của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh.

III. Tài nguyên và Môi trường

- Công tác quản lý đất đai được tăng cường: Hoàn thành, phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2023 của 9/9 huyện, thị xã, thành phố. Hoàn thiện hồ sơ Kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu (2021 - 2025) tỉnh Lào Cai trên cơ sở Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được phê duyệt; triển khai sớm việc lập Kế hoạch sử dụng đất năm 2024 điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030 cấp huyện.

- Công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước được chú trọng, thường xuyên kiểm tra, xử lý kịp thời các vụ việc khai thác khoáng sản trái phép. Trong 6 tháng đầu năm, UBND tỉnh phê duyệt: Cấp 02 giấy phép thăm dò, khai thác vật liệu xây dựng thông thường; cấp 02 Bản xác nhận đăng ký khai thác cát, sỏi nằm trong diện tích dự án công trình thủy điện; thu hồi 1 Giấy phép khai thác khoáng; phê duyệt trữ lượng 05 mỏ khoáng sản; phê duyệt tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tiền trúng đấu giá đối với 04 mỏ khoáng sản; cấp 02 Giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt; 02 Giấy phép khai thác, sử dụng nước dưới đất.

- Công tác bảo vệ môi trường được quan tâm. Tỷ lệ chất thải nguy hại được tiêu hủy, xử lý đạt 88%. Tỷ lệ xử lý và tái sử dụng nước thải ra môi trường lưu vực các sông đạt 27%; tỷ lệ tái sử dụng, tái chế chất thải rắn sinh hoạt đạt 62%. Việc xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại các khu vực đô thị đều được các đơn vị dịch vụ công ích thu gom, vận chuyển và xử lý theo quy định; tiếp tục duy trì các bãi rác đã được đầu tư nâng cấp, cải tạo đảm bảo hợp vệ sinh môi trường. Tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải khu vực nông thôn duy trì ở mức 75%.

IV. Quốc phòng, an ninh, đối ngoại và một số hoạt động

1. Quân sự - quốc phòng

Tiếp tục được củng cố và giữ vững, chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia ổn định. Đường biên, mốc giới, cửa khẩu, đoàn ra, đoàn vào được quản lý chặt chẽ; thực hiện tốt công tác quản lý xuất nhập cảnh, quản lý người nước ngoài.

2. Công tác bảo đảm an ninh, trật tự

Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn về cơ bản ổn định. Lực lượng công an là nòng cốt đã phối hợp chặt chẽ với các cấp các ngành tích cực, chủ động triển khai kế hoạch đảm bảo an ninh các địa bàn có tiềm ẩn phức tạp về an ninh trật tự, không để xảy ra bị động bất ngờ, không để xảy ra các vụ việc phức tạp, điểm nóng về an ninh trật tự; bảo vệ tốt nội bộ, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng, an ninh thông tin, an ninh nông thôn, đô thị. Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm đẩy mạnh, tăng cường đảm bảo trật tự an toàn giao thông và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Trong tháng, xảy ra 09 vụ tai nạn giao thông và va chạm giao thông đường bộ làm chết 09 người, bị thương 07 người. Lũy kế 6 tháng đầu năm xảy ra 30 vụ tai nạn giao thông, chết 20 người, bị thương 31 người (giảm 07 vụ, tăng 04 người chết, giảm 09 người bị thương so với CK năm 2022).

3. Hoạt động đối ngoại

Các hoạt động đối ngoại thực hiện theo đúng chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Tổ chức đón tiếp chu đáo trên 10 đoàn đại sứ các nước đến thăm và làm việc tại Lào Cai; tăng cường hợp tác, triển khai các thỏa thuận hợp tác với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Tiếp tục triển khai các hoạt động hợp tác với các tỉnh trên tuyến Hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; Nhóm công tác liên hợp 4 tỉnh biên giới (Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Hà Giang) với tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.

Ngay sau khi Trung Quốc khng chế được tình hình dịch bệnh, trong tháng 3/2023, tỉnh Lào Cai đã tham gia Hội nghị thường niên lần thứ 3 giữa Bí thư Tỉnh ủy 4 tỉnh của Việt Nam và Bí thư Tỉnh ủy Vân Nam (Trung Quốc) tại tỉnh Hà Giang; đồng thời, giữa hai tỉnh Lào Cai - Vân Nam, Trung Quốc đã tiến hành hội đàm đánh giá, trao đổi và đề xuất một số nội dung hợp tác trong thời gian tới.

Đón đoàn đại biểu tỉnh Vân Nam - Trung Quốc do đồng chí Phó Tỉnh trưởng tỉnh Vân Nam làm Trưởng đoàn đến thăm, làm việc tại tỉnh Lào Cai. Phối hợp cùng Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam tổ chức thành công Chương trình Giao lưu Hữu nghị Quốc tế năm 2023 tại thành phố Lào Cai, với sự tham gia của 14 Đại sứ và các đại diện, cán bộ ngoại giao của 34 Đại sứ quán trong Đoàn Ngoại giao; 24 đại diện các tổ chức quốc tế/các tổ chức phi chính phủ nước ngoài; các tổ chức thành viên Liên hiệp ở Trung ương và một số địa phương, đã góp phần thúc đẩy giao lưu, trao đổi, hợp tác và phát triển kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch của bạn bè quốc tế với Việt Nam nói chung và Lào Cai nói riêng.

V. Xây dựng chính quyền, Cải cách hành chính

Tiếp tục triển khai sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy các cơ quan, tổ chức hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn tỉnh theo đúng quy định, trong 6 tháng đầu năm thực hiện kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức đối với 13 cơ quan, tổ chức hành chính, kết quả giảm 05 phòng thuộc sở, ban, ngành, chi cục; thành lập 01 đơn vị trường học; tổ chức lại 03 đơn vị sự nghiệp công lập; kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy đối với 08 đơn vị sự nghiệp công lập; ban hành mới/sửa đổi Điều lệ đối với 03 Quỹ tài chính. Việc sắp xếp, kiện toàn đã giảm được 01 đơn vị sự nghiệp công lập (tăng 01 đơn vị do thành lập mới, giảm 02 đơn vị do sáp nhập các đơn vị sự nghiệp công lập).

Việc quản lý, giao và sử dụng chỉ tiêu biên chế công chức trong cơ quan, tổ chức hành chính, số lượng người làm việc hưởng lương từ ngân sách Nhà nước trong đơn vị sự nghiệp công lập, chỉ tiêu hợp đồng lao động được thực hiện nghiêm túc theo các quy định của pháp luật và phù hợp với lộ trình cắt giảm biên chế đã ban hành. Tổng số chỉ tiêu biên chế, hợp đồng năm 2023 (tính đến thời điểm hiện nay) của tỉnh Lào Cai là 24.373 chỉ tiêu, cắt giảm 419 chỉ tiêu so với năm 2022. Quy trình tuyển dụng công chức, viên chức thực hiện đúng quy định, trong 6 tháng đầu năm, tỉnh Lào Cai đã thực hiện quy trình tuyển dụng 344 công chức, viên chức.

Các chỉ số xếp hạng của tỉnh Lào Cai so với các tỉnh, thành phố trong cả nước được cải thiện: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2022, tỉnh Lào Cai đạt 68,20 điểm, thuộc nhóm các tỉnh, thành phố đạt chất lượng điều hành kinh tế tốt nhất, xếp thứ 11/63 tỉnh, thành phố, tăng 14 bậc so với năm 2021 (25/63). Chỉ số cải cách hành chính (PAR Index) của tỉnh Lào Cai đứng thứ 11/63 tỉnh, thành phố với tổng số điểm đạt được là 86,93 điểm; Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS) năm 2022, tỉnh Lào Cai đứng thứ 9/63 tỉnh, thành phố với tổng số điểm đạt được là 83,97%, tăng 43 bậc so với năm 2021 (năm 2021 xếp hạng thứ 52). Chỉ số PAPI của tỉnh Lào Cai năm 2022 đứng thứ 52/63 tỉnh, thành phố với tổng số điểm đạt được là 40,397 điểm, giảm 3 bậc so với năm 2021.

Xem Báo cáo tại đây:

Tải về

  • GIỚI THIỆU LÀO CAI
    (20/07/2023)
  • XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI
    (20/07/2023)
  • PS Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới ở Lào Cai năm 2022
    (22/12/2022)
  • PS XÃ NGHÈO NỖ LỰC THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
    (15/12/2022)
  • PS Duy trì và nâng chuẩn các tiêu chí nông thôn mới
    (20/11/2022)
1 2 3 
Đăng nhập
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1