Công tác bảo vệ môi trường tại các Khu công nghiệp những vấn đề đặt ra
Là tỉnh
có trữ lượng tài nguyên khoáng sản lớn nhất cả nước, Lào Cai là một trong những
trung tâm lớn của cả nước về khai khoáng, chế biến khoáng sản, luyện kim, hóa
chất. Tuy nhiên cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp nặng,
công tác bảo vệ môi trường cũng đặt ra những vấn đề hết sức cấp thiết, cần có
những giải pháp căn cơ.
Thường
trực HĐND tỉnh Lào Cai giám sát về công tác bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp
Tằng Loỏng
Để đáp ứng
yêu cầu phát triển và khai thác tốt tiềm năng thế mạnh, những năm qua, tỉnh Lào
Cai chú trọng xây dựng những khu chế xuất công nghiệp, đặc biệt là công tác chế
biến khoáng sản. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có 04 khu công nghiệp (KCN),
thương mại, gồm: KCN Tằng Loỏng, KCN Đông Phố Mới, KCN Bắc Duyên Hải, Khu
thương mại công nghiệp Kim Thành và 03
cụm công nghiệp (CCN) đã đầu tư cơ sở hạ tầng và đi vào hoạt động ổn định (CCN
Đông Phố Mới, CCN Bắc Duyên Hải; CCN Sơn Mãn thuộc Thành phố Lào Cai), 02 cụm
công nghiệp đang trong quá trình đầu tư (CCN Khánh Yên Thượng, huyện Văn Bàn và
CCN Phố Ràng huyện Bảo Yên). Ngoài ra còn có 13 cụm công nghệ đã được UBND tỉnh
phê duyệt quy hoạch. Công tác bảo vệ môi trường công nghiệp được tỉnh Lào Cai đặc
biệt quan tâm. Trong nhiều năm qua, tỉnh đã thực hiện nhiều giải pháp, tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát, quản lý chặt chẽ tại các khu vực trọng điểm tiềm ẩn
nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường như KCN Tằng Loỏng, khu vực khai thác khoáng
sản, các nhà máy trọng điểm luyện kim màu,...
Việc xử
lý nước thải đã và đang được đầu tư nhà máy xử lý nước thải tập trung tại các
khu công nghiệp. Tại Khu công nghiệp Tằng Loỏng có 2 nhà máy xử lý nước thải tập
trung, trong đó 1 nhà máy đã hoạt động ổn định và 1 nhà máy đang trong giai đoạn
vận hành thử nghiệm. Hiện đã có 11/16 nhà máy đấu nối với hệ thống xử lý nước
thải tập trung vào nhà máy xử lý nước thải số 1 Khu công nghiệp Tằng Loỏng với
công suất 3000m3/ngày, đêm. Tuy nhiên, hoạt động của nhà máy xử lý nước thải số
2 (KCN Tằng Loỏng) chưa đảm bảo do các nhà máy sản xuất đều đã đầu tư hệ thống
xử lý nước thải nội bộ nên hiệu quả đầu tư chưa cao. Số nhà máy còn lại chưa được
đấu nối do chưa đầu tư hạ tầng thu gom nước thải. Đối với các Khu cụm công nghiệp
khác, việc quy hoạch xây dựng và vận hành hệ thống thu gom và xử lý nước thải
chưa được chú ý. Khu công nghiệp Đông Phố Mới có 1 nhà máy xử lý nước thải, tuy
nhiên nhà máy này từ khi xây dựng hoàn thành (năm 2013) đến nay không hoạt động.
Ngoài ra còn có các hệ thống bể, cụm bể điều hoà, đập tràn để ngăn và thu gom,
xử lý nước thải, trung hòa lượng nước ô nhiễm đồng thời thu gom khi xảy ra sự cố
hóa chất tại các khu công nghiệp. Riêng các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh,
đến nay vẫn chưa đầu tư xây dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung.
Việc quan trắc và kiểm soát khi thải công nghiệp, tại KCN Tằng Loỏng, tỉnh đã đầu
tư lắp đặt 2 trạm quan trắc tự động liên tục và đầu tư cơ sở hạ tầng tiếp nhận
dữ liệu quan trắc đặt tại Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh, các trạm quan trắc
môi trường tự động đã cung cấp thông tin để phục vụ công tác quản lý nhà nước về
môi trường trên địa bàn tỉnh; tăng cường năng lực cảnh báo và giám sát; cập nhật
liên tục cơ sở dữ liệu về hiện trạng môi trường phục vụ lập cơ sở dữ liệu về
môi trường, qua đó nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, góp phần bảo vệ môi trường
và nâng cao chất lượng sống cho người dân trên địa bàn. Lượng khí thải phát
sinh tại các khu, cụm công nghiệp khoảng 1,7 triệu m3/h thành phần khí thải chủ
yếu là khí SO¬2, NOx, CO, HF, hơi axít, bụi... việc xử lý đã được các nhà máy đầu
tư hệ thống xử lý bằng công nghệ như xyclon lọc bụi ướt; lọc tĩnh điện… tuy
nhiên việc xử lý khí thải vẫn chưa triệt để, tình trạng khói bụi, khí độc từ
các nhà máy vẫn phát sinh sự cố ảnh hưởng đến tâm lý, sản xuất nông nghiệp của
nhân dân như vụ việc rò rỉ khí SO¬2 của Công ty Cổ phần DAP số 2 Vinachem ngày
24/5/2022. Hiện có 13 đơn vị phải lắp đặt hệ thống quan trắc tự động với 40 nguồn
thải, đến nay cơ bản các đơn vị đã chấp hành quy định, tuy nhiên còn 3 đơn vị
đã lắp đặt nhưng chưa đảm bảo điều kiện để hoạt động (riêng các nhà máy luyện
kim không thuộc đối tượng phải lắp hệ thống quan trắc). Các đơn vị đều đã xây dựng
và ban hành quy chế bảo vệ môi trường tại các nhà máy theo đúng quy định của
pháp luật.
Tổng khối
lượng chất thải rắn công nghiệp thông thường phát sinh trên toàn tỉnh khoảng
8.160 tấn/ngày đêm, chủ yếu tập trung ở KCN Tằng Loỏng (7.738 tấn/ngày đêm) được
chia thành 3 nhóm (12 nhà máy sản xuất) là nhóm phốt pho, nhóm phân bón và nhóm
luyện kim. Thành phần chất thải rắn công nghiệp thông thường chủ yếu phát sinh
từ quá trình sản xuất phốt pho (xỉ thải), sản xuất phân bón (Gysp), luyện đồng
và luyện gang thép (xỉ đồng, xỉ lò cao) ... cơ bản chất thải rắn phát sinh đã
được xử lý vì vậy ảnh hưởng đến môi trường là không lớn, do các nhà máy đã ký hợp
tiêu thụ với các cơ sở sản xuất để tái chế, mục đích tái sử dụng vào sản xuất
xi măng xây dựng. Hiện nay, khối lượng chất thải rắn công nghiệp thông thường
các loại còn tồn đọng tại bãi chứa khoảng 6 triệu tấn (riêng lượng gysp còn tồn
5,5 triệu tấn do chưa có công nghệ làm sạch độc tố để làm phụ gia xi măng và
các vật liệu khác), các bãi chứa gysp đã có dấu hiệu quá tải, cần sớm có phương
án xử lý để giảm thiểu ảnh hưởng đến môi trường. Tỉnh Lào Cai đã có nhiều
phương án hỗ trợ di dời các hộ dân có nguy cơ ảnh hưởng do ô nhiễm môi trường từ
các nhà máy công nghiệp trong nhiều năm qua. Chỉ riêng năm 2021, tỉnh đã ứng gần
100 tỷ đồng từ ngân sách tỉnh hỗ trợ cho 96 hộ dân di dời tại khu công nghiệp Tằng
Loỏng đến nơi ở mới tránh ô nhiễm môi trường. Đến nay, các ngành có liên quan
rà soát các hộ gia đình, cá nhân còn lại thuộc phạm vi, khu vực có nguy cơ cao ảnh
hưởng ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp, các khu khai thác khoáng sản
trên địa bàn huyện Bảo Thắng và huyện Bát Xát để có kế hoạch di chuyển trong
giai đoạn 2021-2025.

Một
góc bãi thải quặng Gysp trong khu công nghiệp Tằng Loỏng
Lào Cai
là tỉnh miền núi, kinh tế tuy có sự chuyển mình mạnh mẽ nhưng vẫn còn là tỉnh
nghèo. Do vậy, kinh phí dành cho công tác bảo vệ môi trường còn rất hạn chế, vẫn
còn tiềm ẩn nhiều vấn đề về bảo vệ môi trường tại các khu công nghiệp trên địa
bàn tỉnh, đặc biệt là khu công nghiệp Tằng Loỏng. Với tiền đề là Nhà máy tuyển
quặng Apatit, do Liên Xô giúp đỡ xây dựng năm 1985, KCN Tằng Loỏng được thành lập
năm 2011, nên quy hoạch chưa đảm bảo đúng quy định của một khu công nghiệp. Nhiều
vấn đề phát sinh của các nhà máy: Bụi, Khói độc, nước thải... đã ảnh hưởng lớn
đến người dân sinh sống trong khu vực. Tỉnh đã từng bước chỉ đạo khắc phục, hạn
chế tác động xấu đến môi trường từ khu công nghiệp này. Hiện nay theo quy định
tại Điểm a Khoản 4 Điều 97 và Điểm a Khoản 5 Điều 98 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP
ngày 10/01/2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi
trường thì thời hạn hoàn thành việc lắp đặt hệ thống quan trắc bụi, khí thải
công nghiệp, nước thải tự động, liên tục và kết nối, truyền số liệu trực tiếp đến
cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường cấp tỉnh chậm nhật là ngày 31/12/2024.
Tuy nhiên, tại phụ lục 29 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP quy định đối tượng lắp đặt
quan trắc tự động liên tục dựa trên lưu lượng, công suất của công trình thiết bị
từ 100.000 m3/giờ (tính cho tổng lưu lượng của các công trình, thiết bị cùng loại)
trở lên vì vậy hiện nay, một số doanh nghiệp tại KCN Tằng Loỏng không thuộc
danh sách đối tượng phải thực hiện lắp đặt hệ thống quan trắc tự động liên tục
khí thải như: Nhà máy sản xuất NPK của Công ty TNHH MTV Apatit Việt Nam; xưởng
sản xuất NPK của Công ty TNHH MTV supe lân Apromaco Lào Cai... nên rất khó khăn
cho các cơ quan quản lý môi trường theo dõi kiểm tra ảnh hưởng môi trường của
các nhà máy này khi không lắp đặt hệ thống quan trắc tự động liên tục khí thải.
Để giải
quyết các vấn đề về môi trường tại các khu công nghiệp, cần có một giải pháp
căn cơ và toàn diện. Trước hết, các Chính phủ và các bộ ngành cần rà soát, sửa
đổi, bổ sung hệ thống văn bản về quản lý môi trường, đảm bảo đồng bộ, thống nhất
để địa phương và doanh nghiệp thực hiện. Trong lập quy hoạch, cần phải có đủ hạ
tầng để xử lý những vấn đề về môi trường: Hệ thống xử lý nước thải, chất thải rắn,
khói bụi... Chính phủ cần có quy định yêu cầu các doanh nghiệp, nhà máy phải nộp
khoản quỹ về môi trường giao cho cấp tỉnh quản láy, để địa phương có nguồn lực
đầu tư xây dựng các công trình xử lý chất thải công nghiệp./.