Sau
hơn một thế kỷ xây dựng, phát triển và hội nhập (12/7/1907-12/7/2017), Đảng bộ,
chính quyền, quân và dân các dân tộc Lào Cai đã đạt được nhưng thành tựu to lớn
trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an
ninh, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là trong giai đoạn
phát triển và hội nhập hôm nay, Lào Cai đã phát huy truyền thống, năng động,
sáng tạo, vượt qua nhiều khó khăn thử thách, vươn lên trở thành một điểm sáng ở
khu vực Tây Bắc, xứng đáng là phên dậu vững chắc nơi địa đầu biên giới quốc
gia, là cầu nối hiệu quả trên hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải
Phòng – Quảng Ninh.
Trong
suốt chặng đường lịch sử 110 năm qua, nhất là từ khi Đảng bộ tỉnh Lào Cai được
thành lập (ngày
5/3/1947), dù trong bất cứ hoàn
cảnh nào, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc Lào Cai cũng luôn đoàn
kết một lòng, vững tin đi theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn. Trong cuộc trường chinh chống Pháp, tiễu phỉ, dưới
sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh và sự chi viện của Trung ương, nhân dân các dân tộc
Lào Cai đã anh dũng đấu tranh giải phóng quê hương, góp sức làm nên chiến thắng Điện biên lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu. Tiếp đó là giai đoạn củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc, chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ, kết
thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
Trong
thời kỳ đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nhất là sau khi tỉnh Lào Cai
được tái lập vào ngày 1/10/1991, truyền thống anh dũng, đoàn kết, năng động, sáng
tạo, tự lực, tự cường của quê hương Lào Cai tiếp tục được phát huy và tỏa sáng,
thực sự là động lực tạo ra một giai đoạn phát triển tự hào.
Còn
nhớ những ngày đầu tái lập tỉnh, điều kiện
kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng của
tỉnh hết sức khó khăn và phức tạp, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội thấp kém, lại bị tàn phá nghiêm trọng sau những
biến cố, thăng trầm của lịch sử. Quy mô nền kinh tế nhỏ bé, kinh tế tự cấp, tự túc là chủ yếu, sản lượng lương thực
bình quân đầu người mới đạt 184 kg/năm, 55% số hộ dân nằm trong diện đói nghèo,
56/180 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm, 7/10 huyện thị không có điện lưới
quốc gia, thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 1991 chỉ đạt 19 tỷ đồng. Đói
nghèo lại song hành cùng lạc hậu, trình độ dân trí thấp, 60% số trẻ trong độ tuổi không được đến
trường, trên 30% cán bộ xã không biết chữ, 36 xã chưa có trạm y tế, những hủ tục
còn rất nặng nề, đè nặng lên tương lai phát triển. Là một trong 7 tỉnh nghèo nhất khu vực miền núi phía Bắc, Lào Cai khi ấy có
tới 138/180 xã bị xếp vào diện đặc biệt khó khăn, phải hỗ trợ theo chương trình
135 của Chính phủ. Tình hình an ninh biên giới, an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội có những diễn biến phức tạp, hoạt động đối ngoại hầu như là con số
không.
Đi
lên từ xuất phát điểm thấp kém ấy, thực hiện Nghị quyết của 5 kỳ Đại hội Đảng bộ
tỉnh, từ khóa X đến khóa XIV, với sự đoàn kết, thống nhất cao, nỗ lực đột phá,
năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của toàn Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, sau 26 năm tái lập, Lào Cai đã hồi
sinh mạnh mẽ, đạt được những thành tựu diệu kỳ trong phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, quốc phòng – an ninh và đối ngoại. Liên tục trong nhiều năm liền,
tốc độ tăng trưởng kinh tế địa phương đều đạt mức 2 con số. Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch tích cực và bền vững, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, diện mạo
của tỉnh, từ khu vực đô thị đến nông thôn rẻo cao đều dã hoàn toàn đổi khác. Năm
2016, GRDP bình quân đầu người của Tỉnh đạt 46 triệu đồng/ năm, tăng gấp 67 lần
so với năm 1991 và đứng đầu trong các tỉnh Tây Bắc. Nếu như năm 1991, cơ cấu
kinh tế của tỉnh là nông lâm nghiệp chiếm 61,7%, công nghiệp và xây dựng 15,9%,
dịch vụ là 22,3% thì đến năm 2016, tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản
trong cơ cấu kinh tế địa phương chỉ còn chiếm 15,6%; công nghiệp - xây dựng là
44,3% và du lịch - dịch vụ chiếm 40,1%. Thành tựu to lớn ấy là sự kết tinh trí
tuệ và tinh thần hăng say lao động, sáng tạo của cả hệ thống chính trị và trên
60 vạn đồng bào Lào Cai trong suốt hơn ¼ thế kỷ qua.
Thực hiện chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà
nước về chăm lo phát triển khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân,
tỉnh Lào Cai đã thường xuyên dành tới 70% nguồn lực từ ngân sách để đầu tư cho khu vực
đặc biệt quan trọng này. Để rồi kết quả thu về là khu vực kinh tế nông nghiệp
nông thôn của tỉnh đã thực sự khởi sắc, mang tới nền tảng vững biền cho tiến
trình phát triển. Sản xuất lương thực liên tục được mùa, tổng sản lượng lương
thực có hạt năm 2016 đạt 283 nghìn tấn, tăng gấp nhiều lần so với năm 1991. Nông
nghiệp Lào Cai hiện đang được tái cơ cấu mạnh mẽ, theo hướng sản xuất ứng dụng
công nghệ cao, chăn nuôi phát triển theo hướng trang trại, gia trại công nghiệp.
Đặc biệt, Lào Cai là tỉnh đầu tiên trong cả nước thành công với mô hình nuôi cá
nước lạnh thương phẩm, làm giàu thêm các sản phẩm nông nghiệp đặc sản, đặc hữu
vốn đã rất đa dạng của địa phương. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt
là kết cấu hạ tầng cho phát triển vùng cao, vùng nông thôn phát triển mạnh mẽ.
Hiện nay, 100% số xã đã có đường ô tô đến trung tâm đi lại thuận tiện 4 mùa;
80% số thôn bản có đường cho xe cơ giới, tất cả các xã đều có điện lưới quốc
gia. Chương
trình xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững đã được triển
khai đồng bộ, thể hiện quyết tâm chính trị của Lào Cai trong việc tạo bước
phát triển đột phá cho các khu vực nông thôn vùng cao của Tỉnh.
Lịch
sử phát triển của vùng đất địa đầu biên giới Lào Cai cũng chưa bao giờ chứng kiến
quá trình công nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ như trong thời gian qua. Một dòng chảy
đầu tư thực sự được khơi thông ,với những dự án tính bằng đơn vị nghìn tỷ, đầu
tư vào lĩnh vực kinh tế được Đảng bộ tỉnh xác định là khâu “đột phá”. Quyết tâm
chế biến sâu để nâng cao giá trị tài nguyên của ngành công nghiệp Lào Cai thể
hiện rất rõ qua hoạt động của nhiều dự án, nhà máy lớn, chế biến sâu quặng Apatit,
quặng sắt, quặng đồng… Lào Cai hiện là trung tâm công nghiệp luyện kim và hóa
chất, phân bón lớn nhất của vùng và cả nước. Năm 2016, giá trị sản xuất công
nghiệp trên địa bàn đạt 21.680 tỷ đồng, đứng thứ 3 ở khu vực trung du miền núi
phía Bắc, chỉ sau Thái Nguyên, Bắc Giang.
Các
tiềm năng, thế mạnh về du lịch, dịch vụ, thương mại - xuất nhập khẩu của tỉnh
cũng đã và đang được đầu tư khai thác hiệu quả. Suốt nhiều năm liền, cửa khẩu
quốc tế Lào Cai là một trong những cửa khẩu có tốc độ tăng trưởng kim ngạch
biên mậu cao nhất trong cả nước, hiện đã đạt trên 2 tỷ USD mỗi năm. Hướng đi
cùng sự nỗ lực, quyết tâm của Lào Cai trong phát triển kinh tế của khẩu và hoạt
động đối ngoại cũng là nhân tố đặc biệt quan trọng, giúp cho hành lang kinh tế
Kôn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh trở thành hành lang được vận
hành sớm và hiệu quả nhất trong chiến lược phát triển 2 hành lang, một vành đai
kinh tế giữa 2 nước Việt – Trung. Về Du lịch, đặc trưng cảnh quan tự nhiên hùng
vĩ, khí hậu trong lành và nét đẹp văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc
thiểu số giờ đây đã trở thành nguồn tài nguyên độc đáo, có sức hút mạnh mẽ đối
với du khách. Con số trên 2 triệu lượt du khách đến thăm quan, tìm hiểu, khám
phá Lào Cai trong năm 2016 đã khẳng định điều này, đồng thời cho thấy chủ
trương chọn du lịch làm mũi nhọn tăng trưởng là một quyết định đúng đắn của BCH
Đảng bộ tỉnh. Năm 2017, Lào Cai vinh dự là địa phương đăng cai năm du lịch quốc
gia Lào Cai – Tây Bắc. Đây tiếp tục là cơ hội tuyệt vời để quảng bá mạnh mẽ hơn
nữa tiềm năng và sức hấp dẫn của vùng đất, con người Lào Cai, hứa hẹn mang tới
sức bật mới cho ngành công nghiệp không khói của địa phương. Với sự tăng trưởng,
phát triển mạnh mẽ của những ngành kinh tế quan trọng như vừa đề cập, số thu
ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2016 đã đạt trên 6.240 tỷ đồng, tăng 173
lần so với thời điểm tái lập tỉnh năm 1991.
Song hành cùng những thành tựu trong phát triển
kinh tế, các lĩnh vực văn hóa – xã hội của Lào Cai cũng thu được nhiều thành quả
tự hào. Chất lượng giáo dục, cả giáo dục đại trà và giáo dục
mũi nhọn đều đang có sự bứt phá mạnh mẽ. Số trường học đạt chuẩn quốc gia tăng
nhanh ở mọi cấp học, phong trào xã hội hóa giáo dục phát triển rộng khắp. Lào Cai đã hoàn thành
phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở và cũng là tỉnh
đầu tiên ở khu vực Tây Bắc hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào
năm 2013. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng, 100% số thôn bản
có nhân viên y tế. Bệnh viện đa khoa tỉnh Lào Cai hiện là bệnh viện vệ tinh của
hàng loạt bệnh viện tuyến Trung ương, giúp người dân được tiếp cận với các dịch
vụ khám chữa bệnh chất lượng cao ngay tại địa phương mình. Các mục tiêu giảm
nghèo, đảm bảo an sinh xã hội cũng được tỉnh dành sự quan tâm chăm lo đặc biệt.
Hiện tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh theo chuẩn mới chỉ còn chiếm trên 27%, tương
đương khoảng 43.000 hộ.
Hệ
thống chính trị từ tỉnh đến cơ sơ được kiện toàn vững mạnh, toàn tỉnh hiện đã
xóa các thôn bản trắng Đảng viên; Quốc phòng – an ninh được củng cố và tăng cường,
trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Hợp tác quốc tế rộng mở theo hướng đa
phương hóa, đa dạng hóa. Đặc biệt là quan hệ giữa Lào Cai với tỉnh Vân Nam
(Trung Quốc), vùng ALPC (vùng Aquitaine mới – Cộng hòa Pháp), thành phố
Gyeongsan – Hàn Quốc đang không ngừng được củng cố và tăng cường một cách sâu sắc,
hiệu quả.
Đạt
được những kết quả như vừa đề cập là do nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng
nhất là trong suốt những nhiệm kỳ đại hội vừa qua, Đảng bộ tỉnh Lào Cai đã lựa
chọn đúng vấn đề, đúng trọng tâm, trọng điểm và huy động được mọi nguồn lực để
khai thác tối đa lợi thế so sánh. Các cấp chính quyền tỉnh đẩy mạnh công tác cải
cách hành chính, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, nhất quán quan
điểm đồng hành và hỗ trợ tối đa cho hoạt động doanh nghiệp. Điều này được khẳng
định qua việc tuy là một tỉnh miền núi, biên giới, nhiều điều kiện còn rất khó
khăn, nhưng những năm gần đây, Lào Cai luôn đứng trong Top đầu của cả nước về
môi trường cạnh tranh trong thu hút đầu tư cấp tỉnh PCI.
Nhìn
lại những chặng đường phát triển đã qua, chúng ta thực sự tự hào về những thành
tựu đã đạt được, bằng tất cả sức lực và trí tuệ, thậm chí cả sự hy sinh xương
máu của lớp lớp các thế hệ người Lào Cai. Vậy nhưng do xuất phát điểm rất thấp,
lại phải trải qua nhiều biến cố, thăng trầm của lịch sử, nên quy mô nền kinh tế
địa phương hiện vẫn còn nhỏ bé, thu nhập bình quân đầu người mới bằng 83% so với
mặt bằng chung của cả nước. Tổ chức sản xuất kinh doanh của nhiều ngành, nhiều sản
phẩm chưa gắn với chuỗi giá trị, công nghệ sản xuất chậm đổi mới, năng suất và
sức cạnh tranh của sản phẩm còn yếu. Chuyển dịch cơ cấu nội ngành cũng còn nhiều
bất cập, chưa khai thác hết những tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Đời sống của
một bộ phận nhân dân, đặc biệt là ở khu vực vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số còn rất khó khăn, kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững.
Thực
trạng khó khăn ấy vừa là thách thức, đồng thời cũng là động lực để toàn Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân các dân tộc Lào Cai không thể tự mãn, tự hài lòng với
những thành tựu đã đạt được, mà phải không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên, sớm
trở thành tỉnh phát triển của khu vực Tây Bắc và là tỉnh khá của vùng trung du
miền núi phía Bắc như mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đã đề ra.
Hôm
nay, chúng ta lật giở lại những trang sử vẻ vang trong suốt chặng đường hơn một
thế kỷ dựng xây và phát triển của quê hương, để thêm tự hào về quá khứ, và cũng
để nhận thức rõ ràng hơn về trách nhiệm đối với tương lai phát triển của vùng đất
địa đầu.
110
năm sau ngày thành lập, Lào Cai như một con tàu đã vào bệ phóng, tự tin cất
cánh tới tương lai./.
Đặng Xuân Phong
Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh