Xây dựng chùm, chuỗi đô thị Lào Cai, Sa Pa, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Việt Trì
Lượt xem: 182
CTTĐT - Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà ký Quyết định số 891/QĐ-TTg ngày 22/8/2024 phê duyệt Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Mục tiêu đến năm 2030 đẩy nhanh tốc độ và nâng cao chất lượng đô thị hóa, phát triển, sắp xếp, phân bố hệ thống đô thị và nông thôn thống nhất, hiệu quả, toàn diện, có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Tầm nhìn đến 2050, hệ thống đô thị liên kết thành mạng lưới đồng bộ, thống nhất, cân đối giữa các vùng, miền; có vai trò, vị thế xứng đáng trong mạng lưới đô thị châu Á - Thái Bình Dương, có tính cạnh tranh cao trong phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, khu vực và quốc tế.

Xây dựng được ít nhất 05 đô thị đạt tầm cỡ quốc tế; toàn quốc có từ 1.000 - 1.200 đô thị

Định hướng phát triển hệ thống đô thị đến năm 2030 có tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50% và năm 2050 đạt 70%. Số lượng đô thị toàn quốc khoảng 1.000 - 1.200 đô thị; hình thành một số trung tâm đô thị cấp quốc gia, cấp vùng đạt các chỉ tiêu về y tế, giáo dục và đào tạo, văn hóa cấp đô thị tương đương mức bình quân của các đô thị thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN. Xây dựng được mạng lưới đô thị thông minh trung tâm cấp quốc gia và cấp vùng kết nối quốc tế và 03 - 05 đô thị có thương hiệu được công nhận tầm khu vực và quốc tế vào năm 2030.

Kinh tế khu vực đô thị đóng góp vào GDP cả nước khoảng 85%. Dân số đô thị tăng trung bình 3,37 - 4,13%/năm trong giai đoạn 2025 - 2030; tỷ lệ đất xây dựng đô thị trên tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 1,9 - 2,3%, phù hợp với đặc trưng sử dụng đất vùng miền.

Tỷ lệ đất giao thông trên đất xây dựng đô thị đạt khoảng 16 - 26%; diện tích cây xanh bình quân trên mỗi người dân đô thị đạt khoảng 8 - 10 m2; diện tích sàn nhà ở bình quân đầu người tại khu vực đô thị đạt tối thiểu 32 m2; phổ cập dịch vụ mạng Internet băng rộng cáp quang, phổ cập dịch vụ mạng di động 5G, tỷ lệ dân số trưởng thành tại đô thị có tài khoản thanh toán điện tử trên 80%; tỷ lệ dân cư đô thị được cấp nước sạch đảm bảo chất lượng nước sạch đạt 100%; tỷ lệ nước thải sinh hoạt được xử lý tại các đô thị loại II trở lên đạt 40 - 45%; tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được xử lý bằng công nghệ chôn lấp trực tiếp trên tổng lượng chất thải được thu gom đạt dưới 10%.

Cả nước có ít nhất 90% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; phấn đấu cả nước có khoảng 70% số huyện, thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh đạt chuẩn nông thôn mới, hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; trong đó 35% số huyện đạt chuẩn được công nhận là huyện nông thôn mới nâng cao, huyện nông thôn mới kiểu mẫu; phấn đấu 100% huyện có đô thị.

Phấn đấu 100% đơn vị hành chính cấp tỉnh có đủ 3 loại hình thiết chế văn hóa gồm: Trung tâm Văn hóa hoặc Trung tâm Văn hóa - Nghệ thuật, bảo tàng, thư viện; 100% đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã có Trung tâm Văn hóa - Thể thao.

Phát triển hệ thống đô thị Việt Nam theo mô hình mạng lưới

Phát triển hệ thống đô thị Việt Nam theo mô hình mạng lưới, phân bố hợp lý tại các vùng kinh tế xã hội, vùng đô thị lớn gắn với các cực tăng trưởng của đất nước trong mối liên kết tầng bậc, cấp, loại đô thị; tạo thành hình thái không gian kết nối chuỗi, dải và chùm đô thị, được phân bố hợp lý theo các vùng miền.

Mạng lưới đô thị quốc gia gồm: Các vùng đô thị, các đô thị trung tâm các cấp, bao gồm: Đô thị trung tâm cấp quốc gia, cấp vùng, cấp tỉnh, huyện và cụm xã nông thôn. Mạng lưới đô thị quốc gia tạo nên hình thái không gian kết nối theo chuỗi, dải và chùm đô thị tại các vùng kinh tế - xã hội, dọc theo 02 hành lang kinh tế quốc gia gắn với chiến lược biển và đường Hồ Chí Minh; hành lang vành đai biên giới (Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia) gắn với kinh tế cửa khẩu, an ninh quốc phòng và các trục hành lang Đông - Tây.

Các đô thị trung tâm cấp vùng là các đô thị loại I, II, III (đô thị lớn hoặc trung bình) được xác định trong quy hoạch giữ vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng của một vùng liên tỉnh, vùng tỉnh; liên kết hỗ trợ thúc đẩy phát triển các đô thị trung tâm cấp tỉnh, cấp huyện tương ứng với đô thị loại III, IV, V (đô thị trung bình hoặc nhỏ) tạo nên thế và lực trong tổng thể hệ thống đô thị toàn quốc và trên các hành lang, vành đai kinh tế động lực.

Hình thành 04 vùng đô thị:

Vùng đô thị Hà Nội là vùng đô thị lớn gồm các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương như: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Bắc Giang, Thái Nguyên, Hoà Bình và Phú Thọ. Xây dựng và phát triển Thủ đô Hà Nội là cực tăng trưởng quốc gia và các đô thị lân cận của các tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Trung du và miền núi phía Bắc.

Vùng đô thị thành phố Hồ Chí Minh là vùng đô thị lớn gồm các tỉnh/thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây Ninh, Bình Phước, Long An, Tiền Giang. Xây dựng và phát triển thành phố Hồ Chí Minh là cực tăng trưởng quốc gia và các đô thị lân cận của các tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.

Vùng đô thị Đà Nẵng gồm các thành phố Đà Nẵng, Huế và các đô thị lân cận thuộc tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng, thành phố Huế là cực tăng trưởng, động lực quan trọng, đóng vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, khu vực Bắc Tây Nguyên.

Vùng đô thị Cần Thơ gồm thành phố Cần Thơ và các đô thị lân cận thuộc các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp. Xây dựng thành phố Cần Thơ là cực tăng trưởng động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Phát triển 02 thành phố lớn trở thành đô thị năng động, sáng tạo và định hướng 08 tỉnh trở thành thành phố trực thuộc Trung ương

Theo quy hoạch, có 5 đô thị trực thuộc Trung ương gồm: Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh (dự kiến đến năm 2030 là đô thị loại đặc biệt), Hải Phòng, Cần Thơ, Đà Nẵng (dự kiến đến năm 2030 là đô thị loại I).

Xây dựng và phát triển Thủ đô Hà Nội là thành phố “Văn hiến - Văn minh - Hiện đại”. Quy hoạch thủ đô Hà Nội là thành phố toàn cầu, thông minh, năng động, sáng tạo; đô thị đầu tàu về văn hóa, đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ của cả nước; trung tâm giao dịch quốc tế, dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế, tài chính, ngân hàng chất lượng cao; đầu mối giao thông quan trọng của khu vực và quốc tế.

Xây dựng và phát triển Thành phố Hồ Chí Minh có vị thế nổi trội về kinh tế và đổi mới sáng tạo khu vực Đông Nam Á. Quy hoạch thành phố Hồ Chí Minh là thành phố toàn cầu, hiện đại, năng động; chuyển nhanh sang dịch vụ chất lượng cao, trở thành trung tâm tài chính quốc tế có tính cạnh tranh trong khu vực; đi đầu về công nghiệp công nghệ cao, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, giáo dục, đào tạo, y tế chuyên sâu và là đầu mối giao thương với quốc tế.

Xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trở thành thành phố thuộc nhóm dẫn đầu cả nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những trung tâm kinh tế - xã hội lớn của cả nước và Đông Nam Á. Xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ là thành phố sinh thái, văn minh, hiện đại mang đậm bản sắc văn hóa sông nước vùng đồng bằng sông Cửu Long.

8 tỉnh định hướng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương gồm: Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa, Bắc Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Ninh, Ninh Bình, Hải Dương, Bình Dương (dự kiến đến năm 2030 là đô thị loại I).

Quy hoạch 42 đô thị loại I, 50 đô thị loại II, 64 đô thị loại III

Quy hoạch ban hành Danh mục 42 đô thị loại I; trong đó Vùng Đồng bằng sông Hồng có 11 đô thị, Vùng Trung du và Miền núi phía Bắc có 05 đô thị, Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có 07 đô thị, Vùng Tây Nguyên có 03 đô thị, Vùng Đông Nam Bộ có 05 đô thị, Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 11 đô thị.

Có 50 đô thị loại II; trong đó Vùng đồng bằng sông Hồng có 10 đô thị, Vùng Trung du và Miền núi phía Bắc có 11 đô thị, Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có 11 đô thị, Vùng Tây Nguyên có 3 đô thị, Vùng Đông Nam Bộ có 8 đô thị, Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 7 đô thị.

Có 64 đô thị loại III; trong đó Vùng Đồng bằng sông Hồng có 10 đô thị, Vùng Trung du và Miền núi phía Bắc có 05 đô thị, Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có 15 đô thị, Vùng Tây Nguyên có 06 đô thị, Vùng Đông Nam Bộ có 07 đô thị, Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 21 đô thị.

Trong đó Vùng Trung du và Miền núi phía Bắc phân thành 03 tiểu vùng: Vùng núi Đông Bắc Bộ; vùng núi Bắc Bắc Bộ và vùng núi Tây Bắc Bộ; các thành phố Thái Nguyên, Việt Trì, Bắc Giang, Hòa Bình, Lạng Sơn, Lào Cai, Điện Biên Phủ là đô thị trung tâm vùng.

anh tin bai

Theo Quy hoạch, đến năm 2030: Thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai là đô thị loại I; thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai là đô thị loại III.

Vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ hình thành Chùm, chuỗi đô thị Bắc Giang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Đồng Đăng, Bắc Kạn, Cao Bằng, với thành phố Thái Nguyên, Bắc Giang và Lạng Sơn là trung tâm (Vùng núi Đông Bắc Bộ); chùm, chuỗi đô thị Lào Cai, Sa Pa, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Việt Trì, với thành phố Việt Trì và Lào Cai là trung tâm (Vùng núi Bắc Bắc Bộ); chuỗi đô thị Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Hòa Bình, với thành phố Hòa Bình và Điện Biên là trung tâm (Vùng núi Tây Bắc Bộ).

Dọc các hành lang kinh tế Đông - Tây hình thành các chùm, chuỗi đô thị kết nối cửa khẩu và cửa biển, các vùng của Việt Nam với các quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mê Kông gồm: (1) Hành lang Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng; (2) Hành lang Mộc Bài - Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Vũng Tàu; (3) Hành lang Điện Biên - Sơn La - Hòa Bình - Hà Nội; (4) Hành lang Cầu Treo - Vũng Áng; (5) Hành lang Lao Bảo - Đông Hà - Đà Nẵng; (6) Hành lang Bờ Y - Pleiku - Quy Nhơn; hành lang Bờ Y - Quảng Nam - Đà Nẵng; hành lang Buôn Ma Thuột - Khánh Hòa… (7) Hành lang Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng; (8) Hành lang Hà Tiên - Rạch Giá - Cà Mau.

Đô thị trung tâm du lịch quốc gia tại các thành phố Đà Nẵng, Hạ Long, Ninh Bình, Điện Biên Phủ, Sa Pa, Phong Nha, Lý Sơn, Hội An, Nha Trang, Quy Nhơn, Phan Thiết, Đà Lạt, Phú Quốc, Côn Đảo; tại các đô thị trung tâm cấp quốc gia, cấp vùng có tiềm năng du lịch và cơ sở hạ tầng du lịch phát triển.

Hành lang biên giới Việt Nam - Trung Quốc gồm: Chuỗi đô thị phía Đông (thành phố Lạng Sơn, Đồng Đăng, Cao Bằng và Bắc Kạn với thành phố Lạng Sơn là trung tâm); chuỗi đô thị phía Tây (thành phố Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, A Pa Chải, với thành phố Lào Cai là đô thị trung tâm).

Đặc biệt quan tâm đến kiến trúc các đô thị là trung tâm cấp quốc gia, khu vực và quốc tế như: Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh; bảo vệ, tôn tạo kiến trúc cảnh quan tại các khu vực di sản trong đô thị, đô thị đặc thù như Huế, Hội An, Đà Lạt, Sa Pa, Ninh Bình; các khu phố cổ, phố cũ; di tích lịch sử, di sản văn hóa và các công trình kiến trúc cảnh quan có giá trị.

UBND cấp tỉnh có trách nhiệm rà soát quy hoạch tỉnh đã được phê duyệt; trường hợp có mâu thuẫn với quy hoạch cao hơn thì thực hiện điều chỉnh quy hoạch tỉnh theo quy định. Phối hợp, hợp tác chặt chẽ với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong các vùng đô thị lớn để thúc đẩy hợp tác đầu tư, hình thành mạng lưới đô thị. Chủ động nghiên cứu, đề xuất các cơ chế chính sách phát triển đô thị, nông thôn, trình cấp có thẩm quyền hoặc ban hành theo thẩm quyền để thực hiện hiệu quả Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Xem Quy hoạch tại đây:

Tải về


Tải về

Thanh Huyền
Tin liên quan
1 2 3 4 5  ... 
  • PS ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI LÀO CAI 2024
    (25/06/2024)
  • GIỚI THIỆU LÀO CAI
    (20/07/2023)
  • XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI
    (20/07/2023)
  • PS Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới ở Lào Cai năm 2022
    (22/12/2022)
  • PS XÃ NGHÈO NỖ LỰC THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
    (15/12/2022)
1 2 3 4 
Đăng nhập
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1